Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

5D là nơi tôi sẽ đến, cuộc sống với cấu trúc cơ thể dựa trên tinh thể là thực tế của tôi


Vâng, tôi sẽ hoàn thành việc lên 5D sau khi sao chổi bay qua vào tháng 2, tôi sẽ nhận công việc mới với tư cách là thư ký cao cấp về hồ sơ Akashaic, tôi sẽ báo cáo trực tiếp tới Tổng lãnh thiên thần Uriel. Những người bạn Arcturus cho tôi biết có cách để tôi viết blog từ 5D đến 3D – tất nhiên, tôi có thể dùng thần giao cách cảm để chuyển thông tin đế Asket hoặc nhóm Idylwild, và người Arcturus đã báo cho tôi biết họ có công nghệ để truy nhập vào hệ thống internet 3D dễ dàng.

Tôi thực sự không thích thú khi du hành vào 3D và quay lại 5D lắm. Tôi thích cơ thể tinh thể 5D hơn là cơ thể 3D carbon…bạn hãy tưởng tượng nó lạ lùng thế nào khi tôi có cả 2 cơ thể kết hợp khi bị tắc giữa các chiều kích!

Aspartam-Những điều cần biết

Aspartame là chất làm ngọt nhân tạo, một chất phụ gia. Và là một chất hóa học. Nó không phải là sản phẩm tự nhiên, hoàn toàn là một hợp chất hóa học. Phân tử Aspartame được tạo thành từ 3 thành phần: 2 trong đó là gốc amino axit, đây chính là thành phần khóa các protein.


Thành phần còn lại có tên là Phenylanlanine, chất này chứa 50% phenylalanin, thành phần khác là Aspartic Acid khoảng 40%, 10% là Methyl Ester, chất này khi nuốt vào sẽ giải phóng methyl alcohol. Methanol. Wood alcohol. Đó là một chất độc. Thực sự độc.

Aspartame is an artificial sweetener, an additive. And it's a chemical. It's not a natural product, it's a chemical. The molecule is made up of three components. Two are amino acids, the so-called building blocks of protein.

One is called Phenylalanine, which is about 50% of the molecule and the other is Aspartic Acid, which is like 40%. And the other 10% is so-called Methyl Ester, which as soon as it's swallowed becomes free methyl alcohol. Methanol. Wood alcohol, which is a poison. A real poison.


Aspartam2Aspartam là một chất tạo ngọt vốn được sử dụng phổ biến trong các loại nước uống và thực phẩm dành cho người bị bệnh tiểu đường và người muốn ăn kiêng với mục đích giảm lượng đường và năng lượng tiêu thụ. Tuy nhiên, có  những lo ngại về tác dụng phụ của nó như có khả năng gây ung thư, gây bệnh động kinh, gây u não…. Liệu loại đường hóa học này có ảnh hưởng đến sức khỏe con người không?
Aspartam

Aspartam (tên khác là L-aspartyl-L-phenylalanine methyl ester) là một este methyl cấu tạo từ 2 acid amin là aspartic acid và phenylalanine. Trong tự nhiên, aspartic acid và phenylalanine được tìm thấy trong thực phẩm có chứa protein, như thịt, ngũ cốc và các sản phẩm từ sữa. Este methyl cũng được tìm thấy trong hoa quả và rau.

Aspartam có độ ngọt cao, khoảng 180 đến 200 lần ngọt hơn đường mía. Vị ngọt của aspartam khá giống đường. Vị ngọt này được cảm nhận chậm hơn và kéo dài lâu hơn so với đường.

aspatamAspartam có năng lượng khoảng 4 Kcal/g (17 KJ/g). Tuy nhiên, chỉ cần một lượng rất nhỏ aspartam đã tạo ra độ ngọt cần thiết. Do đó năng lượng chúng ta đưa vào cơ thể khi dùng thực phẩm tạo ngọt bằng aspartam sẽ không đáng kể.
Đa số người tiêu dùng có nhận xét là aspartam không để lại dư vị khó chịu, tuy nhiên một số người nhạy cảm cho rằng đường này để lại trên lưỡi một hậu vị không ngon. Điều này có thể khắc phục bằng cách trộn aspartam với các loại đường khác (như acesulfame K hay saccharine). Aspartam rất được ưa chuộng trong việc sử dụng để thay thế đường trong các sản phẩm thực phẩm dành cho người ăn kiêng.

Các tranh cãi hiện nay về aspartam

Khi vào cơ thể, bản thân aspartam không hấp thụ vào máu mà tan ra trong ruột thành ba chất: aspartic acid (40%), phenylalanin (50%) và methanol (10%). Đây là cơ sở của nhiều ý kiến  về tác động bất lợi cho sức khỏe con người từ aspartam.

Lo ngại về độc tính của methanol:

Gọi A là quan điểm của những người ủng hộ việc sử dụng aspartam; B là quan điểm của những người chống lại việc sử dụng aspartam.

A: Methanol có thể tìm thấy trong tự nhiên:
- Trái cây, nước trái cây (hàm lượng có thể đạt tới 140mg/l).
- Nước giải khát có cồn (hàm lượng có thể đạt tới 1,5g/l).
Con người vẫn tiêu thụ methanol từ những nguồn này mà không bị ảnh hưởng gì về sức khỏe. Do đó, việc tiêu thụ methanol sinh ra từ aspartam cũng an toàn.

B: bản thân methanol là một chất có độc tính thấp. Sau khi được đưa vào cơ thể, methanol được ôxy hóa tạo nên formaldehyde, chất này lại tiếp tục được ôxy hóa tạo nên acid formic (hoặc formate, tùy theo độ pH). Acid formic có độc tính rất cao. Chính acid formic là nguyên nhân gây nên tình trạng toan chuyển hóa (nhiễm acid) và mù lòa, những tổn thương đặc trưng của nhiễm độc methanol. 

Trong nước giải khát có cồn có ethanol là yếu tố ngăn chặn sự chuyển hóa methanol thành formaldehyde gây độc, nên việc so sánh giữa methanol có nguồn gốc từ aspartam và methanol có nguồn gốc từ đồ uống có cồn là không phù hợp.
Trong trái cây, dù chưa có bằng chứng rõ ràng về sự hiện diện của một hay một số chất nào đó có chức năng ngăn chặn sự hình thành độc chất axit formic từ methanol có trong trái cây. Tuy nhiên, có những tính toán cho thấy phải có sự hiện diện của những chất này. Ví dụ:

Theo một số nghiên cứu thì sự tiếp xúc kéo dài tại nơi làm việc với môi trường có nồng độ khí methanol > 260 mg/m3 (260 ppm) có thể gây ra ngộ độc methanol mãn tính. Số lượng methanol được hấp thu hàng tuần khi tiếp xúc với môi trường này (cho rằng một người lớn nặng 70kg, thở 6,67m3 khí trong 8 tiếng làm việc) là:

(260 mg/m3 x 6,67 m3/ngày x 5 ngày công lao động x 60% tỷ lệ hấp thu) / 70kg = 75 mg/kg methanol hàng tuần.

Tuy nhiên, nếu một người nặng 70kg thích uống nước cam (trong 1kg cam tươi ước tính có 4 tới 420 mg methanol, khi để lâu hay vắt nước uống thì lượng methanol tăng lên. Trong ví dụ này lấy 1kg cam vắt lấy nước có 500mg methanol), uống một lượng là 1,5 kg cam một ngày thì lượng methanol hấp thu trong một tuần của người đó là:

(500 mg methanol x 1,5 kg cam x  7 ngày)/70 kg = 74 mg/kg methanol hàng tuần.

Chưa kể nếu một người thích ăn hay uống cà chua thì nguy cơ còn cao hơn vì trong cà chua có chứa lượng methanol cao hơn gấp 5 lần so với cam.

Như vậy, những ai uống nhiều nước cam hay cà chua hàng ngày sẽ phải có những biểu hiện ngộ độc methanol mãn tính. Nhưng việc ngộ độc không xãy ra. Do đó, trong các loại trái cây này phải có các chất có tính ngăn chặn sự chuyển hóa của methanol để hình thành độc chất. Như vậy, không thể nói rằng methanol từ aspartam giống methanol của trái cây.
aspatam3
Lo ngại về lượng axit aspartic và phenylalanine khi ăn sản phẩm có chứa aspartam:

A: Phenylalanine là một axít amin cần thiết mà cơ thể không tự tổng hợp được, do đó phải thu nạp từ thức ăn bên ngoài. Người lớn cần ít nhất 1 – 2g L-phenylalanine mỗi ngày, trẻ em cần nhiều hơn.

B: Phenylalanine cũng là một chất độc thần kinh. Quá nhiều phenylalanine gây động kinh, thai gây chậm phát triển trí óc, mất ngủ… Chính phenylalanine tạo ra bệnh phenylketonuria (PKU), là loại bệnh mà trong máu có quá nhiều axít amin phenylalanine, làm chậm phát triển trí tuệ nghiêm trọng, và làm tổn hại đến hệ thần kinh. Mặt khác, con người hấp thu các axít amin cần thiết từ thiên nhiên dưới dạng kết hợp với nhiều chất khác chứ không phải chỉ riêng một chất cô lập. 

A: Aspatic acid được hấp thu qua ruột và đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa năng lượng và nitrogen trong ty thể (nơi xảy ra quá trình hô hấp tế bào chuyển ôxy và chất dinh dưỡng thành năng lượng).

B: nếu dư thừa, axit aspartic có thể gây ra rối loạn nội tiết (hormone) và các vấn đề về thị lực. Aspartic acid là một chất kích thích thần kinh, ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương, gây nên các chứng: nhức đầu, buồn nôn, đau bụng, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, vấn đề về thị lực, trầm cảm, và bệnh suyễn, động kinh…

Một số nghiên cứu cho thấy aspartam có ảnh hưởng thần kinh và não bộ, gây bệnh động kinh và khối u não

B: Viện Ramazzini tại Ý đã công bố hai báo cáo từ năm 2005 là đã tìm thấy sự gia tăng đáng kể bệnh ung thư hạch và bệnh bạch cầu ở chuột có chế độ ăn uống có chứa aspartam. Ngoài ra, có một số nghiên cứu độc lập khác cũng chứng tỏ aspartam có hại cho não và thần kinh.


A: các cơ quan an toàn thực phẩm trên toàn thế giới như Ủy ban Khoa học Âu châu về Thực phẩm (EFSA), Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (USFDA), Cơ quan Kiểm tra Thực phẩm Canada (CFIA ), Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Austraulia – NewZealand (FSANZ )… đã đánh giá nghiên cứu trên và nhiều nghiên cứu khác. Tuy nhiên, qua xem xét, đã không tìm thấy bằng chứng khoa học đáng tin cậy về các tác hại này.

Ngoài ra, đường aspartame và các sản phẩm của nó đã được phân tích, điều tra một cách sâu rộng trong hơn 20 năm tại hơn 90 nước trên thế giới, bao gồm nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dịch tễ học và kiểm tra hậu mãi (Post Marketing Surveillance – PMS). Aspartam được kết luận là an toàn cho con người.


Chung cuộc của những tranh cãi này

Ngoài các vấn đề đã nêu trên, còn có rất nhiều tranh cãi khác giữa A và B:  aspartam gây nguy hiểm cho bệnh nhân tiểu đường, aspartam gây dị ứng, lượng methanol trong máu tăng khi tiêu thụ aspartam… Cho tới ngày ngay, các tranh cãi giữa A và B vẫn tiếp tục. Bên B cho rằng luận điệu của bên A là những chiêu PR (quan hệ công chúng) của nhà sản xuất aspartam. Bên A lại cho rằng chứng cứ của bên B thiếu sức thuyết phục, chỉ dựa vào cảm tính.

Dù sao, quan điểm của nhiều tổ chức có uy tín hiện nay ủng hộ việc sử dụng aspartam trong hạn mức cho phép, bao gồm Tổ chức Nông lương Quốc tế (FAO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Ủy ban Quản lý Dược-Thực phẩm Mỹ (FDA)…. Liều dùng cho phép của aspartame mỗi ngày (ADI) là nhỏ hơn hoặc bằng 40 mg/kg thể trọng. Đây là một trong những hàm lượng cho phép sử dụng cao nhất trong số các phụ gia thực phẩm. Tuy nhiên, tháng 4 năm 2009, FESA cũng tổ chức một hội nghị gồm các chuyên gia có những kiến thức chuyên sâu về aspartam. Các chuyên gia này xem xét lại tất cả những nghiên cứu và dữ liệu về aspartam và những ảnh hưởng đến sức khỏe (nếu có) của nó. Dự kiến, đầu năm 2010, hội đồng này sẽ thông báo kết quả.

Tại Việt Nam, aspartam được phép sử dụng cho các sản phẩm như đồ uống, kẹo, bia, rượu với mục đích làm tạo ngọt, điều vị với ADI cũng từ 0 – 40 mg/kg, giống như kiến nghị của các tổ chức uy tín trên thế giới. Trên những sản phẩm có sử dụng aspartam sẽ phải ghi tên “aspartam” hoặc “aspartame” hay ghi mã số “951”.
Hoàng Mi

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Thế giới như tôi thấy - Albert Einstein


Tiểu luận này được Einstein viết tại Berlin năm 1930 khi ông 51 tuổi. Năm 1931, nó được dịch ra tiếng Anh và in trong tập thứ 13 của bộ sách Living Philosophies, nhà xuất bản New York, Mỹ.


Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta tin rằng ta cảm nhận được điều đó. Song, nhìn từ cuộc sống thường nhật mà không đi sâu hơn, ta biết rằng ta đến đây vì người khác - trước hết vì những người mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn toàn vào nụ cười và sự yên ấm của họ, kế đến là vì bao người không quen mà số phận của họ nối với ta bằng sợi dây của lòng cảm thông. Mỗi ngày tôi nghĩ không biết bao nhiêu lần, rằng cuộc sống bên ngoài và cuộc sống nội tâm của tôi dựa trên lao động của những người hiện tại và cả những người đã chết, rằng tôi phải nỗ lực để trao lại tương xứng với những gì tôi đã nhận được và còn nhận được. Tôi có nhu cầu sống giản tiện và thường cảm thấy dằn vặt, rằng mình đòi hỏi nhiều hơn mức cần thiết từ lao động của đồng loại. Tôi thấy sự khác biệt về giai cấp xã hội là không thể biện minh được và rốt cuộc là do dựa trên bạo lực. Tôi cũng tin rằng, một đời sống bên ngoài giản dị và không cầu kỳ là tốt cho mọi người, tốt cho cả thể xác lẫn tâm hồn.

Tôi tuyệt đối không tin và tự do của con người theo nghĩa triết học. Mỗi người không chỉ hành động vì sự thúc ép ngoại cảnh mà còn theo đòi hỏi nội tâm. Câu nói của Schopenhauer [1]: "Con người tuy có thể làm những gì mình muốn nhưng không không thể cứ muốn [chạy theo] những gì mình muốn." đã hằng sống theo tôi trong những lúc đối mặt và chịu đựng sự khắc nghiệt của cuộc đời và là nguồn suối vô tận của lòng khoan dung. Cảm nhận đó đã làm vơi đi biết bao gánh nặng trách nhiệm vốn đã khiến ta suy sụp; nó giúp ta không quá khắt khe với chính mình và người khác; nó dẫn đến một cách nhìn cuộc sống mà ở đó, nhất là sự hài hước cũng có chỗ đứng của nó.


Từ góc nhìn khách quan, câu hỏi về ý nghĩa hoặc mục đích tồn tại của mình cũng như của các sinh thể nói chung luôn có vẻ vô nghĩa đối với tôi. Nhưng mặt khác, mỗi người đều có những lý tưởng nhất định làm kim chỉ nam cho nỗ lực và sự phán xét của mình. Theo nghĩa này, sự thoả mãn và yên ấm chưa bao giờ là mục đích tự thân của tôi (tôi gọi nền tảng luân lý này là lý tưởng bầy lợn). Lý tưởng của tôi, lý tưởng soi đường và luôn làm dâng đầy trong tôi niềm cảm khái yêu đời, là Thiện, Mỹ và Chân. Không có cảm nhận và sự đồng điều với những người cùng chí hướng, không có sự đau đáu với cái khách quan, với cái mãi mãi không vươn tới được trong lĩnh vực nghệ thuật và nghiên cứu khoa học, thì cuộc sống với tôi thật trống rỗng. Những mục đích tầm thường mà người đời theo đuổi như của cải, thành đạt bề ngoài, sự xa xỉ, với tôi từ thời trẻ đã luôn đáng khinh.

Ý thức nhiệt thành của tôi về công bằng xã hội và trách nhiệm xã hội luôn đối nghịch một cách cỗ hữu với việc tôi không có nhu cầu trực tiếp gắn kết với những cá nhân và tập thể. Tôi đích thực là một kẻ "thu mình", kẻ chưa bao giờ hoàn toàn thuộc về nhà nước, quê hương, bạn bè, vâng, ngay cả gia đình thân thiết của mình cũng vậy; đối với tất cả những mối quan hệ ấy, tôi luôn có cảm giác xa lạ khôn dứt và nhu cầu được cô đơn; cảm giác đó càng tăng theo tuổi tác. Người ta cảm nhận được, một cách rõ nét nhưng không ân hận, về ranh giới của sự đồng cảm và hoà hợp với người khác. Có thể một người như thế sẽ đánh mất phần nào sự hồn nhiên và vô tư, nhưng bù vào đó, anh ta lại luôn độc lập trước những quan điểm, thói quen và sự phán xét của người khác, và không để mình dễ bị chao đảo trên cái nền tảng không lấy gì làm vững chắc đó.

Lý tưởng chính trị của tôi là lý tưởng dân chủ. Mỗi người cần được tôn trọng như một nhân cách và không ai được thần thánh hoá. Thật trớ trêu cho số phận, chính tôi lại nhận được quá nhiều sự ngưỡng mộ và trọng thị từ người khác - mà tôi chẳng làm gì xứng đáng hay làm gì nên tội. Điều này có lẽ có nguyên cớ từ mong muốn không được thoả mãn của nhiều người trong việc muốn hiểu vài ba ý tưởng của tôi, những ý tưởng mà tôi đã tìm được chút sức lực yếu ớt trong cuộc vật lộn không ngừng nghỉ. Thực ra tôi cũng biết rằng, để đạt được mục đích tập thể, nhất thiết phải có ai đó đứng ra nghĩ, sắp xếp và chịu trách nhiệm chung. Nhưng không được ép buộc những người đi theo, mà phải để họ có quyền chọn cho mình người cầm lái. Một hệ thống độc đoán dựa trên sự cưỡng bức sẽ sớm bị thoái hoá trong một thời gian ngắn, tôi tin chắc như vậy. Bởi bạo lực luôn hấp dẫn những kẻ thấp kém về đạo đức, và tôi tin rằng đã thành quy luật: nối nghiệp những tên bạo chúa thiên tài luôn là những tên khốn kiếp. Vì lý do đó, tôi luôn là người quyết liệt chống lại những hệ thống như vậy, những hệ thống mà chúng ta đang thấy ở Ý và Nga hiện nay.

Cái làm cho nền dân chủ ở Châu Âu hôm nay rơi vào bê bối không phải là bản thân lý tưởng dân chủ, mà là sự thiếu ổn định của một bộ phận lãnh đạo các chính phủ và tính phi nhân cách [2] của thể chế bầu cử. Về mặt này, tôi cho rằng nước Mỹ đã có lựa chọn đúng: họ có một Tổng thống có trách nhiệm, được bầu cho một thời gian đủ dài và có đủ quyền lực để thực sự đảm nhận được trọng trách. Mặt khác, tôi lại đánh giá cao hoạt động nhà nước của chúng ta về mặt phúc lợi rộng rãi cho cá nhân trong trường hợp đau ốm hay khó khăn. Cái mà tôi cho là có giá trị đích thực trong các hoạt động của con người không phải là nhà nước, mà là cá thể sáng tạo và cá thể cảm nhận, là cá nhân: Chỉ cá nhân mới bứt lên, tạo dựng được những giá trị trân quý và cao cả, trong khi bầy đàn, xét như bầy đàn, cữ mãi vẫn là trì độn trong tư duy và trì độn trong cảm xúc.

Nhân đây tôi muốn đề cập đến quái thai kinh tởm nhất của bản tình bầy đàn: hệ thống quân đội mà tôi căm ghét. Chỉ cần kẻ nào cảm thấy thích thú đứng vào đoàn duyệt binh trong tiếng quân nhạc, tôi đã coi thường rồi; anh ta được trời phù nhầm cho bộ não lớn, bởi với anh ta, chỉ cần cột xương sống thôi là đã quá đủ. Vết nhục này của nền văn minh cần bị loại trừ càng sớm càng tốt. Chủ nghĩa anh hùng phục tùng mệnh lệnh, bạo lực mù quáng, trò hề ái quốc tởm lợm, tôi căm ghét chúng làm sao. Với tôi, chiến tranh thật đê tiện và đáng khinh làm sao. Tôi thà bị băm vằm làm muôn mảnh còn hơn là dự phần vào cái trò khốn nạn đó! Dù sao tôi vẫn luôn nghĩ tốt về nhân loại, và tôi tin rằng, lẽ ra bóng ma này đã có thể biến đi từ lâu nếu lý trí lành mạnh của dân chúng không bị những tham vọng về kinh tế và chính trị, thông qua trường học và báo chí, làm cho bại hoại.

Cái đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó, không còn khả năng thảng thốt hay kinh nghạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, đã tắt rụi lửa sống trong mắt mình. Trải nghiệm cái bí ẩn - dù có pha trộn cảm giác sợ hãi - cũng chính là trải nghiệm mà tôn giáo đã tạo ra. Hiểu biết về sự hiện hữu của cái mà ta không thể nhìn thấu, của những biểu hiện của lý trí sâu thẳm nhất và cái đẹp rực rỡ nhất, [tức về] những cái chỉ có thể đến với trí não của ta trong những hình thức sơ khai nhất; chính cái biết và cái cảm làm nên tính tín ngưỡng đích thực; theo nghĩa đó và chỉ theo nghĩa đó, tôi thuộc về những người có tín ngưỡng sâu xa. Còn một Thượng đế theo nghĩa là kẻ ban phát phần thưởng và trừng phạt những tạo vật do chính mình tạo ra, kẻ gần như có một ý chí như người trần thế chúng ta, thì tôi không thể nào hình dung ra được. Tôi không muốn và cũng không thể tưởng tượng ra những cá nhân sống lâu hơn cái chết thể xác; mặc cho những tâm hồn yếu đuối, vì sợ hãi hay ích kỷ đáng cười, tìm đến những suy nghĩ như vậy. Với tôi, sự huyền nhiệm về tính vĩnh cửu của sự sống cùng với sự thức nhận và tiên cảm về cấu tạo kỳ diệu của tạo vật cũng như nỗ lực nhẫn nại để nắm bắt lấy một phần dù rất nhỏ bé của cái lý tính toả rạng trong cõi tạo hoá này, đã là quá đủ.

---------------------

[1] Authur Schopenhauer (1788 - 1860): triết gia Đức; tác phẩm chính: Thế giới như là ý chí và biểu tượng(Die Welt als Wille und Vorstellung), Leipzig 1819 (tập I), 1844 (tập II). Tư tưởng của ông chịu nhiều ảnh hưởng của triết học Ấn Độ cổ đại, nhất là của các kinh Upanishad/Áo nghĩa thư.

[2] ... dem upoersoonlichen Charakter des Wahlmodus: Tính phi nhân cách của thể thức bầu cử. Khi nói đến tính "phi nhân cách" của thể thức bầu cử ở các nước châu Âu, theo chúng tôi, Einstein muốn phê phán thể thức bầu cử mà ở đó, các đảng phái chính trị có vai trò chính yếu và phần nào che lấp cá nhân người ra ứng củ. (Khác với thể thức bầu cử Tổng thống trực tiếp kiểu Mỹ: ứng cử viên Tổng thống cần chứng minh được nhân cách và bản lĩnh cá nhân của mình trước cử tri nhiều hơn.)

---------------------------------------------------------

(trích Thế giới như tôi thấy - Albert Einstein - [tái bản lần 4] NXB Tri Thức)

------------------------------------------------------------

The World as I see it

What an extraordinary situation is that of us mortals! Each of us is here for a brief sojourn; for what purpose he knows not, though he sometimes thinks he feels it. But from the point of view of daily life, without going deeper, we exist for our fellow-men--in the first place for those on whose smiles and welfare all our happiness depends, and next for all those unknown to us personally with whose destinies we are bound up by the tie of sympathy. A hundred times every day I remind myself that my inner and outer life depend on the labours of other men, living and dead, and that I must exert myself in order to give in the same measure as I have received and am still receiving. I am strongly drawn to the simple life and am often oppressed by the feeling that I am engrossing an unnecessary amount of the labour of my fellow-men. I regard class differences as contrary to justice and, in the last resort, based on force. I also consider that plain living is good for everybody, physically and mentally.

In human freedom in the philosophical sense I am definitely a disbeliever. Everybody acts not only under external compulsion but also in accordance with inner necessity. Schopenhauer's saying, that "a man can do as he will, but not will as he will," has been an inspiration to me since my youth up, and a continual consolation and unfailing well-spring of patience in the face of the hardships of life, my own and others'. This feeling mercifully mitigates the sense of responsibility which so easily becomes paralysing, and it prevents us from taking ourselves and other people too seriously; it conduces to a view of life in which humour, above all, has its due place.

To inquire after the meaning or object of one's own existence or of creation generally has always seemed to me absurd from an objective point of view. And yet everybody has certain ideals which determine the direction of his endeavours and his judgments. In this sense I have never looked upon ease and happiness as ends in themselves--such an ethical basis I call more proper for a herd of swine. The ideals which have lighted me on my way and time after time given me new courage to face life cheerfully, have been Truth, Goodness, and Beauty. Without the sense of fellowship with men of like mind, of preoccupation with the objective, the eternally unattainable in the field of art and scientific research, life would have seemed to me empty. The ordinary objects of human endeavour--property, outward success, luxury--have
always seemed to me contemptible.

My passionate sense of social justice and social responsibility has always contrasted oddly with my pronounced freedom from the need for direct contact with other human beings and human communities. I gang my own gait and have never belonged to my country, my home, my friends, or even my immediate family, with my whole heart; in the face of all these ties I have never lost an obstinate sense of detachment, of the need for solitude--a feeling which increases with the years. One is sharply conscious, yet without regret, of the limits to the possibility of mutual understanding and sympathy with one's fellow-creatures. Such a person no doubt loses something in the way of geniality and light-heartedness ; on the other hand, he is largely independent of the opinions, habits, and judgments of his fellows and avoids the temptation to take his stand on such insecure foundations.

My political ideal is that of democracy. Let every man be respected as an individual and no man idolized. It is an irony of fate that I myself have been the recipient of excessive admiration and respect from my fellows through no fault, and no merit, of my own. The cause of this may well be the desire, unattainable for many, to understand the one or two ideas to which I have with my feeble powers attained through ceaseless struggle. I am quite aware that it is necessary for the success of any complex undertaking that one man should do the thinking and directing and in general bear the responsibility. But the led must not be compelled, they must be able to choose their leader. An autocratic system of coercion, in my opinion, soon degenerates. For force always attracts men of low morality, and I believe it to be an invariable rule that tyrants of genius are succeeded by scoundrels. For this reason I have always been passionately opposed to systems such as we see in Italy and Russia to-day. The thing that has brought discredit upon the prevailing form of democracy in Europe to-day is not to be laid to the door of the democratic idea as such, but to lack of stability on the part of the heads of governments and to the impersonal character of the electoral system. I believe that in this respect the United States of America have found the right way. They have a responsible President who is elected for a sufficiently long period and has sufficient powers to be really responsible. On the other hand, what I value in our political system is the more extensive provision that it makes for the individual in case of illness or need. The really valuable thing in the pageant of human life seems to me not the State but the creative, sentient individual, the personality; it alone creates the noble and the sublime, while the herd as such remains dull in thought and dull in feeling.

This topic brings me to that worst outcrop of the herd nature, the military system, which I abhor. That a man can take pleasure in marching in formation to the strains of a band is enough to make me despise him. He has only been given his big brain by mistake; a backbone was all he needed. This plague-spot of civilization ought to be abolished with all possible speed. Heroism by order, senseless violence, and all the pestilent nonsense that does by the name of patriotism--how I hate them! War seems to me a mean, contemptible thing: I would rather be hacked in pieces than take part in such an abominable business. And yet so high, in spite of everything, is my opinion of the human race that I believe this bogey would have disappeared long ago, had the sound sense of the nations not been systematically corrupted by commercial and political interests acting through the schools and the Press.

The fairest thing we can experience is the mysterious. It is the fundamental emotion which stands at the cradle of true art and true science. He who knows it not and can no longer wonder, no longer feel amazement, is as good as dead, a snuffed-out candle. It was the experience of mystery--even if mixed with fear--that engendered religion. A knowledge of the existence of something we cannot penetrate, of the manifestations of the profoundest reason and the most radiant beauty, which are only accessible to our reason in their most elementary forms--it is this knowledge and this emotion that constitute the truly religious attitude; in this sense, and in this alone, I am a deeply religious man. I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures, or has a will of the type of which we are conscious in ourselves. An individual who should survive his physical death is also beyond my comprehension, nor do I wish it otherwise; such notions are for the fears or absurd egoism of feeble souls. Enough for me the mystery of the eternity of life, and the inkling of the marvellous structure of reality, together with the single-hearted endeavour to comprehend a portion, be it never so tiny, of the reason that manifests itself in nature.

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

‎"NGƯỜI MẸ ĐIÊN"

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. 



Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. 

Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể. 
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: 
- "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". 

Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: 
- "Ðưa, đưa tôi..." 

Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: 
- "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biêt được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". 

Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi. 

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: 
- "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". 

Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: 
- "Ðừng... đừng...". 

Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: 
- "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". 

Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.

Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: 
- "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". 

Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: 
- "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". 

Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa. Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: 
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi". 

Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống. 

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: 
- "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" 

Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu. 

Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: 
- "Thụ... bóng... bóng...". 

Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: 
- "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!". 

Tôi tức tối đáp lại nó: 
- "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" 
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện. 

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. 

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: 
- "Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được..." 

Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: 
- "Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..." 
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Ðừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: 
- "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". 

Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: 
- "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" 

Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi: 
- "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!" 
Tôi vùng vằng bĩu môi: 
-"Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!". 
- "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!". 
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: 
- "Ðánh tôi, đánh tôi!". 

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: 
- "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!"…

Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". 

Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.

Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra. 

Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. 

Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.

Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. 

Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói: 
- "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra". 

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. 

Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. 
- "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!". 

Cha lại nhìn tôi nói: 
- "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". 

Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp. 

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này. 

27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: 
- "Ngọt quá, ở đâu ra?" 
Mẹ nói: 
- "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: 
- "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì. 

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: 
- "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" 

Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: 
- "Mẹ mày có nói gì không?"

Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- "Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" 
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: 
- "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" 
Tôi nói: 
- "Thím, thím đừng doạ cháu...". 

Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi... 
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: 
- "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."

Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi. 

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. 
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: 
- "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"


Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Dalai Lama - quotes


1. Để đạt được tình yêu thương cao thượng và thành tựu vĩ đại đôi khi phải trải qua sự mạo hiểm lớn lao.
2. Khi bạn thất bại, đừng đánh mất đi những bài học.
3. Trong đời sống nên thực hành theo ba chữ R:
- Tôn trọng bản thân (Respect for self)
- Tôn trọng người khác  (Respect for others )
- Chịu trách nhiệm về tất cả hành động của bạn (Responsibility for all your actions)
4. Nên nhớ rằng đôi khi không đạt được những gì bạn mong muốn lại là sự may mắn tuyệt vời.
5. Học những quy tắc để bạn biết làm thế nào phá vỡ chúng một cách chính xác
6. Đừng để một tranh chấp nhỏ làm tổn thương một mối quan hệ tuyệt vời của bạn.
7. Khi bạn nhận ra bạn đã phạm một lỗi lầm, bước tiếp theo là sửa đổi nó ngay lập tức.
8. Dành một ít thời gian cho riêng mình mỗi ngày.
9. Mở rộng vòng tay của bạn để thay đổi, nhưng đừng đánh mất đi những giá trị bản thân.
10. Nên nhớ rằng sự im lặng đôi khi là câu trả lời tốt nhất.
11. Sống một đời sống tốt lành và ngay thẳng. Về sau khi bạn lớn tuổi hơn và nghĩ về chúng, bạn sẽ có thể thích thú thưởng thức nó lần thứ hai.
12. Một bầu không khí yêu thương trong gia đình  là nền tảng cho đời sống của bạn.
13. Khi xảy ra sự bất hòa với một người bạn thương, hãy giải quyết nó ngay tức thời, nhớ đừng mang nó theo bạn vào quá khứ.
14. Chia sẽ kiến thức của bạn. Đó là phương pháp hay nhất để đạt được danh tiếng muôn thuở.
15. Hãy dịu dàng với trái đất
16. Một năm một lần hãy đến một nơi nào đó mà bạn chưa từng đến.
17. Hãy nhớ rằng để có mối quan hệ tốt đẹp trong tình yêu, đôi khi tình yêu của bạn dành cho người khác phải cao hơn nhu cầu đòi hỏi mà bạn mong đợi từ người đó.
18. Muốn đánh giá thành công của bạn, trước tiên bạn phải xét đến những gì bạn phải từ bỏ để có được nó.
19. Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực hành lòng từ bi.
20. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, hãy thực hành lòng từ bi