Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Bác Sĩ John Holt – liệu pháp kháng ung thư


Một giải thích giản đơn
Điều trị ung thư bằng siêu cao tần UFH
Ung thư- 3 dấu hiệu cố định để nhận biết bệnh ung thư:
1) Tế bào ung thư phát triển theo cấp số mũ (như một kiểu cho vay nặng lãi vậy). Điều đó có nghĩa lúc nào tế bào ung thư cũng phân chia. Một thành 2, hai thành 4, 4 thành 16, etc.
2) khi đã xảy ra thì không thể đảo ngược.
3) Di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.


Glucose (C6-H12-O6)
Loại đường này được 3 dấu hiệu ở trên sử dụng.
Ở dấu hiệu đầu tiên, glucose cung cấp năng lượng từ việc chuyển đổi năng lượng của nó thành acid lactic, để cho các tế bào ung thư phân chia mà không cần đến oxy.
Ở dấu hiệu thứ hai, glucose sử dụng oxy nhằm cung cấp năng lượng để khiến não bộ của bạn hoạt động.
Ở dấu hiệu thứ ba, glucose cùng với oxy kiểm soát mức độ bình thường trong quá trình phân bào.
Ung thư là 1 sai lệch trong số 3 dấu hiệu kiểm soát này mà tạo ra tế bào ung thư.
Sóng siêu âm tần số 434 MHz
Vào năm 1973, tôi đã phát hiện rằng tần số này (tần số tiêu chuẩn trên toàn Châu Âu được sử dụng cho các mục đích y tế) kích hoạt quá trình đốt cháy glucose mà không có oxy của tế bào ung thư trong vòng từ 20-30 phút. Kể từ năm 1948, hàng triệu bệnh nhân trên toàn Châu Âu đã được chữa trị bằng xung tần này  để tự chữa lành chấn thương, gãy xương, chữa lành vết thương, etc. mà không phát hiện ra bất kỳ tác dụng phụ nào. Tần số kích thích việc phân chia tế bào bình thường (ổn định), mà thường thì sự ổn định đó bị hạn chế khi mà quá trình tự sửa sai chấm dứt.
Nếu sự hấp thu glucose từ trong máu của tế bào ung thư bị làm gián đoạn, thì khi sử dụng sóng siêu tần (UFH) sẽ hủy đi tế bào ung thư đó. Đây là sự hủy hoại có chọn lọc, bởi vì nó chỉ hoạt động trên glucose- nguyên liệu cho quá trình lên men latic.

Phương pháp điều trị
Tiêm tĩnh mạch hoặc truyền tĩnh mạch glucose để đưa vào các yếu tố ngăn chặn các tác nhân gây rối loạn phân bào, trước khi trị liệu bằng UFH là rất cần thiết, vì sẽ làm quá trình trị liệu nhanh chóng đạt hiệu quả. Các yếu tố ngăn chặn các tác nhân oxy hóa, cũng như các hình thức acid amin tương tự trong trạng thái bị oxy hóa hoàn toàn; gồm cystine và glutathione. Chúng mang theo nhiều khí oxy, giống như glucose cho tế bào ung thư vậy, do đó, chúng hấp thụ nhanh chóng các bức xạ UFH đầu tiên. Glucose được “đốt cháy” bởi các yếu tố ngăn chặn khí oxy, và do đó các tế bào ung thư bị tiêu hủy.
Những tĩnh mạch lớn ở cánh tay là vị trí thích hợp nhất để tiêm. Những tĩnh mạch nhỏ ở bàn tay thì không phù hợp. Tiêm thì hơi gây khó chịu, liều tiêm là 50ml dung dịch. Trước khi bắt đầu điều trị thì bệnh nhân bị suy tĩnh mạch có thể được bác sĩ chèn thêm đường PICC (một ống nhỏ mỏng được cài vào ven ở chỗ gập của cánh tay). Nếu bạn có một thẻ bảo hiểm y tế tư nhân, một bác sĩ chẩn đoán hình ảnh sẽ dùng phương phái siêu âm tĩnh mạch sâu ở cánh tay để đặt PICC cho bạn, điều này chỉ có thể thực hiện tại Perth. Sau khi trị liệu xong, đường PICC có thể dễ dàng tháo bỏ.
Kết quả sẽ đến từ sau 15 lần điều trị trong  hơn ba tuần, từ Thứ Hai đến Thứ Sáu – 15 ngày làm việc (bao gồm cả các ngày nghỉ lễ tưởng niệm ở Tây Úc).
Truyền tĩnh mạch glucose để đưa vào các yếu tố mất khoảng 15 phút, ngay lập tức sau 20 đến 25 phút điều trị bằng liệu pháp UFH, bằng một máy phát vô tuyến trên một phần hay toàn bộ cơ thể.
Các biến chứng của việc điều trị
Siêu cao tần 434 MHz tạo ra sự cộng hưởng (nó khiến các tế bào rung động như một chiếc chuông vậy), và năng lượng đó tạo ra một số nhiệt lượng bên trong tế bào như việc ngồi trước một ngọn lửa điện khổng lồ.  Cần phải nhấn mạnh rằng đây không phải là quá trình xử lý nhiệt và KHÔNG ĐƯỢC gọi là làm tăng thân nhiệt, khi mà cơ thể được cố tình nâng lên 41,8 độ C bằng phương pháp phi điện tử.
Sau khi điều trị nửa giờ đồng hồ trên một chiếc ghế/ giường thư giãn chuyên dụng dưới máy điều hòa, thì bệnh nhân có thể lái xe về ngay khi họ muốn.
Tác dụng phụ
Mỗi bệnh nhân đều có chỉ số sinh hóa, huyết học, và chứng thực về mức độ ung thư, etc., đều đã được ước tính trước và sau khi điều trị. Chống chỉ định duy nhất trong việc điều trị là ở một căn bệnh thiếu hụt corpuscles máu hiếm gặp, trong căn bệnh này ( chỉ một vài sự thay đổi ít ỏi cũng gây ra những biến chứng nặng nề), có thể gây nên sự hủy hoại do nhiệt độ ấm lên nhẹ (nhiệt độ của cơ thể người không vượt quá 39,5 độ C, có thể du di nhiệt độ giới hạn cao nhất là 41,5 độ C), và sẽ khiến bệnh nhân bị thiếu máu. Trường hợp này cần phải được truyền máu khẩn cấp ngay khi nó xảy ra.
Khoảng 1-2% bệnh nhân có thể mắc phải tình trạng não bị đình trệ hoạt động nhẹ do sự thiếu hụt glucose.  Tế bào ung thư thu nạp glucose bằng cách sử dụng acid amin (cysteine), nhưng não lại tiết glucose bằng cách sử dụng amino acid (methionine). Biến chứng hiếm gặp này có thể hoàn toàn tránh được bằng khẩu phần ăn 100-200 gram thịt đỏ 5 lần/ 1 tuần. Nếu chưa sẵn sàng để ăn thịt đỏ thì có 2% khả năng bạn sẽ gặp tác dụng phụ, và được yêu cầu phải nhập viện. Bệnh nhân phải hiểu rằng nếu họ không ăn thịt đỏ để điều trị là rủi ro của riêng của họ và họ phải tự gánh lấy trách nhiệm.
Bệnh nhân sẽ không được nhận sự điều trị nếu như họ đang dùng một hoạt chất chống oxy hóa nào khác, ngoài thành phần được chứa trong một chế độ ăn uống thông thường, đơn giản. Vì dụ như việc quá liều Vitamin A, Vitamin C, Vitamin E, selenium và các hợp chất khác, được gọi là chất chống oxy hóa kháng ung thư , có thể dẫn đến việc không hiệu quả trong điều trị, đơn giản vì chúng phá hủy glucose trước khi  đưa vào các yếu tố ngăn chặn đến các tế bào ung thư.
Đặc điểm chung để việc điều trị thành công
A. Các cá thể bị tổn thương ít hơn thì kết quả tốt hơn, bởi vì tế bào ung thư càng lớn về kích thước thì mạch máu càng bị chèn ép và thu hẹp, cho nên thuốc càng không thể thâm nhập vào sâu trong trung tâm.
B. Tổng khối lượng của tế bào ung thư rất là quan trọng. Chỉ cần tăng thêm 100 gram so với ước tính ban đầu thì sẽ phải tăng thêm một lượt trị liệu.
Chế độ điều trị
Tôi cho tiến hành điều trị với những bệnh nhân có khả năng đáp ứng cho 15 ngày điều trị. Sau đó chờ tiếp từ 6-8 tuần để đánh giá lại tình trạng bệnh nhân. Nếu có cải thiện đáng kể - giảm từ 10-20khối lượng khối u, thì sau đó có thể tiến hành việc tái điều trị trên những bệnh nhân này. Số lần tối đa mà một bệnh nhân ung thư biểu mô đã từng nhận điều trị từ 12 năm trước mà còn sống và không có dấu hiệu của bệnh, là 7.
Chống chỉ định cụ thể
 1. Chống chỉ định tiêu biểu nhất khi điều trị bằng UFH là không sử dụng bất kỳ hình thức hóa trị liệu pháp nào (còn gọi là làm ngộ độc, hay đầy đủ hơn là phương pháp gây độc tế bào). Các loại thuốc này là những chất độc phi xác định trên tế bào, được thiết kế để kháng những vật liệu di truyền trong nhân tế bào. Trên khía cạnh các tác nhân gây ra bệnh ung thư, thì những loại thuốc hóa trị không có một hành động nào cụ thể, hành động cụ thể là gây thương tổn ở tế bào chất hoặc tăng sản tế bào ở vùng nhân. Ở tế bào bình thường, thì việc thiết lập và kiểm soát được thi hành một cách hoàn nhở sử dụng thông tin di truyền. Ung thư là một dạng thiệt hại mà hệ thống phiên mã trong bản đồ di truyền người không thể phục hồi được. Chu trình chết theo tế bào bị bất hoạt, do những đường dẫn là các mã di truyền bị đột biến vô nghĩa.
Một số thuốc gây độc tế bào có thể khiến cho các tế bào bình thường dẫn điện tốt hơn, nhưng chỉ cần một lượng nhỏ các hạt điện tử tồn tại giữa tế bào ung thư và tế bào bình thường cũng đủ để khiến UFH không còn khả năng tác động lên tế bào ung thư được nữa.
2. Số lượng dịch có trong khoang ngực, khoang bụng và khoang tim cần phải được tháo ra hết, và nếu các khoang ráo thì kết quả khả quan cũng sẽ đạt được với cả những căn bệnh ung thư tiềm ẩn. Vì dụ căn bệnh ung thư phổi và ung thư vú, có thể bị tràng dịch trong khoang phổi trái và phải, và hiếm nhất là trường hợp tràn dịch màng ngoài tim. Bức xạ UFH sẽ không được cho thâm nhập qua màng dịch. Việc UFH làm màng dịch đủ nóng sẽ gây nên những thương tổn trong khoang.
Chất lỏng trong khoang phúc mạc được gọi là cổ trướng. Đây là biến chứng thường thấy ở bệnh ung thư cổ tử cung và tắc nghẽn cục bộ lưu thông từ hệ bạch huyết đến ổ bụng, đôi khi là tắc nghẽn từ trong gan do ung thư thứ cấp ở cơ quan. Trong khi cổ trướng chưa được kiểm soát, mà vẫn sử dụng trị liệu UFH với liều thông thường có tác dụng tích cực đối với các tế bào ung thư, sẽ gây ra thêm nhiều biến chứng khác. Cổ trướng, tràn dịch màng phổi/ màng ngoài tim, chứa các dịch thể có thể kết dính lại với nhau dưới tác động của UFH, khiến cho thể tích không gian vốn có bị thu hẹp lại. Vì vậy, nếu có thể thì phải xửa lý ổ dịch trước khi trị liệu bằng sóng vô tuyến.
Nếu bệnh nhân đã có sẵn một lượng dịch nhỏ trong khoang, họ sẽ được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa khác để tiêu thoát dịch, trước hoặc trong quá trình trị liệu. Bệnh nhân xảy ra biến chứng mà chưa có thẻ bảo hiểm tư nhân sẽ được điều đến bệnh viện công để xử lý dứt các triệu chứng.
3. Hút thuốc là hoàn toàn chống chỉ định trong cả quá trình điều trị. Phải ít nhất vài tuần sau khi ngừng hút thuốc thì trị liệu mới được phép bắt đầu. Carbonmonoxide trong khói thuốc tiêu thụ thụ khí oxy, khi truyền tĩnh mạch glucose nhằm để đưa vào các yếu tố ngăn chặn.
[còn tiếp]

Bác Sĩ John Holt – liệu pháp kháng ung thư

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét