Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Nguồn gốc và kĩ thuật của chương trình điều khiển trí óc Monarch


Chương trình Monarch là một phương pháp điều khiển trí óc được sử dụng bởi rất nhiều tổ chức cho những mục đích bí mật. Nó là sự tiếp nối của dự án MK-ULTRA, một chương trình điều khiển bộ não được phát triển bởi CIA, trực tiếp thử nghiệm trong quân đội và quần chúng. Những liệu pháp này tàn ác đến ngỡ ngàng (bởi toàn bộ mục đích của nó là để hành hạ các nạn nhân) và kết quả thu được cũng rất đáng sợ: nô lệ bị điều khiển trí óc có thể bị kích thích bất cứ lúc nào để thực hiện những hành động mà người điều khiển yêu cầu. Khi các phương tiện thông tin đại chúng đồng loạt bỏ qua vấn đề này, hơn 2 triệu người Mĩ đã phải trải qua chương trình đáng kinh hãi này. Bài viết dưới đây phân tích về nguồn gốc của chương trình Monarch cũng như một số biểu tượng và phương pháp của nó.


Chú ý: Bài viết này bao gồm những yếu tố phản cảm và có thể kích thích những người sống sót sau chương trình Monarch.

Chương trình Monarch là một kĩ thuật điều khiển trí óc bao gồm những yếu tố của Satanic Ritual Abuse (SRA) (tạm dịch là nghi lễ hành hạ ma quỷ) và Multiple Personality Disorder (MPD) (tạm dịch là rối loạn đa nhân cách). Nó ứng dụng tổng hòa của tâm lý học, thần kinh học và những nghi lễ huyền bí để tạo ra một nhân cách mới bên trong nạn nhân; nhân cách này có thể bị kích thích và lập trình bởi người điều khiển. Nô lệ của chương trình Monarch được sử dụng bởi nhiều tổ chức liên quan tới các lĩnh vực như quân đội, nô lệ tình dục và ngành công nghiệp giải trí. Bài viết này sẽ tập trung vào nguồn gốc của chương trình Monarch, những kĩ thuật và hệ thống biểu tượng của nó.


Nguồn gốc

Xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhiều tài liệu đã miêu tả những nghi lễ và phương thức có nét tương đồng với điều khiển trí óc. Một trong những tài liệu viết xuất hiện sớm nhất mà có liên quan đến việc sử dụng thần học để điều khiển bộ não là Egyptian Book of the Dead (tạm dịch là cuốn sách về cái chết của Ai Cập). Nó tập hợp những nghi lễ được các hội kín tiếp thu rất nhiều, miêu tả phương pháp tra tấn, đe dọa (để gây hoảng loạn), sử dụng thuốc độc (thuốc phiện) và những câu thần chú (thuật thôi miên), và hệ quả cuối cùng là nạn nhân trở nên phụ thuộc và nô dịch. Một vài sự kiện khác còn cho rằng phép thuật đen tối, phép phù thủy và sự chiếm hữu của ác quỷ (khi sức sống nạn nhân hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực bên ngoài) chính là cội rễ của chương trình Monarch.

Tuy nhiên, chỉ khi tới thế kỉ 20, điều khiển trí óc mới thực sự trở thành một bộ môn khoa học theo cách hiểu hiện đại của nó, khi hàng nghìn đối tượng đã được quan sát, ghi lại và đưa vào thực nghiệm.

Một trong những tài liệu bài bản nhất về điều khiển trí óc bằng các tổn thương được tổng kết bởi Josef Mengele, một nhà vật lý học hoạt động ở các trại tập trung của Nazi. Ông ta đã ngay lập tức trở nên nổi tiếng vì là một trong những nhà vật lí học giám sát việc lựa chọn những tù binh, quyết định xem giết ai và ép buộc ai thành người lao động khổ sai. Tuy nhiên, ông ta được biết tới nhiều nhất qua việc áp dụng các thí nghiệm kinh khủng lên tù binh của trại tập trung, bao gồm cả trẻ em – và Mengele được gọi là “Thiên thần của cái chết”.
  
Joseph Mengele, 1935
Mengele nổi tiếng qua những thí nghiệm bẩn thỉu trên tù binh ở các trại tập trung, đặc biệt trên những cặp sinh đôi. Một phần học thuyết của ông ta thường không được nhắc tới, tuy nhiên, đó chính là nghiên cứu của Mengele về điều khiển trí não. Rất nhiều những nghiên cứu của ông đã bị tịch thu bởi phe Đồng minh và vẫn là tài liệu mật cho tới tận bây giờ.

“GIÁO SƯ GREEN (Giáo sư Joseph Mengele): Người lập trình nổi bật nhất, có thể cho rằng Joseph Mengele là cha đẻ của chương trình Monarch, cựu bác sĩ của trại tập trung Nazi. Hàng nghìn những nạn nhân Mĩ của chương trình điều khiển trí óc Monarch có “Giáo sư Green” là người điều khiển chính”.

“Giáo sư Joseph Mengele là người đầu tiên phát triển dự án Monarch và chương trình điều khiển trí óc MK-ULTRA của CIA. Mengele và khoảng 5000 người Nazi cấp cao đã được bí mật đưa đến Mĩ và Nam Mĩ sau Thế chiến thứ hai (in an Operation designated Paperclip). Những người Nazi tiếp tục phát triển kĩ thuật điều khiển trí óc và tên lửa ở những trại quân sự bí mật. Điều duy nhất chúng ta được biết tới chính là những nghiên cứu về tên lửa với những người Nazi nổi tiếng như Warner Von Braun. Những tên giết người, hành hạ người khác cùng những kẻ gây tổn thương rất nhiều người vô tội – không ai có thể thấy chúng, tuy nhiên chúng đang bận rộn trong các trại lính bí mật của Mĩ – nơi giam giữ hàng nghìn những đứa trẻ Mĩ bị bắt cóc (khoảng một triệu một năm) được đặt nằm trong lồng sắt, chất đầy từ sàn nhà lên trần nhà như một phần của việc “huấn luyện”. Những đứa trẻ này bị sử dụng để cải thiện và hoàn chỉnh kĩ thuật điều khiển trí óc của Mengele. Một vài đứa trẻ được lựa chọn (những đứa sống sót khỏi khóa “huấn luyện”) sẽ trở thành nô lệ tương lai của điều khiển trí óc, chúng bị tiếp tục sử dụng cho hàng nghìn công việc từ nô lệ tình dục cho tới sát thủ. Một nhóm trẻ quan trọng và “có thể giết được”, sẽ bị tàn sát trước mặt những đứa trẻ khác để gây tổn thương cho chúng, buộc chúng phải hoàn toàn tuân lệnh và phụ thuộc".

Nghiên cứu của Mengele đóng vai trò nền tảng cho chương trình bí mật, phi pháp về nghiên cứu con người của CIA có tên là MK-ULTRA.

MK-ULTRA
  
Tài liệu bí mật về MK-ULTRA

Dự án MK-ULTRA kéo dài từ đầu những năm 50 của thế kỉ trước tới cuối những năm 60, sử dụng những công dân Mĩ và Canada làm đối tượng thử nghiệm. Những bằng chứng đã được công bố chỉ ra rằng dự án MK-ULTRA bao gồm rất nhiều phương pháp để tạo ra những tình trạng tâm thần cho các cá nhân cũng như thay đổi chức năng của não, ví dụ như việc ép sử dụng bí mật thuốc phiện và các hóa chất khác, tước đoạt giác quan, cô lập, hành hạ về thể chất và tinh thần.

Những thí nghiệm được nhiều người biết tới nhất được thực hiện bởi MK-ULTRA bao gồm sử dụng LSD (Lysergic acid diethylamide – một chất gây choáng, thôi miên và ảo giác) trên con người, bao gồm những người trong CIA, quân nhân, bác sĩ, những người làm trong chính phủ, gái mại dâm, những bệnh nhân tâm thần, và những người bình thường, để quan sát những phản ứng của họ.

Tuy nhiên, phạm vi của MK-ULTRA không chỉ dừng lại ở đó. Những thí nghiệm sử dụng sốc điện năng, sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần cũng đã được áp dụng trên rất nhiều đối tượng, bao gồm cả trẻ em.


Một bức ảnh nạn nhân là trẻ em của MK-ULTRA, 1961
Mặc dù mục đích chính của dự án là để phát triển những hình thức tra tấn và hỏi cung tù binh của các nước đối đầu, nhiều sử gia khẳng định rằng mục đích của dự án là để tạo ra những "Manchurian Candidates” (tạm dịch là những ứng cử người Mãn Châu – cái tên “Manchurian Candidates” lấy từ một cuốn tiểu thuyết được viết năm 1959 bởi Richard Condon về con trai của một gia đình làm chính trị của Mĩ bị tẩy não và trở thành một sát thủ của một tổ chức cộng sản), được lập trình để thực hiện những vụ ám sát hoặc những nhiệm vụ bí mật.

MK-ULTRA được đưa ra ánh sáng qua nhiều nhiệm vụ trong những năm 70 của thế kỉ trước, bao gồm Rockefeller Commission (tạm dịch là nhiệm vụ nhà Rockefeller) vào năm 1975. Mặc dù CIA đã khẳng định rằng họ không còn tiếp tục những thí nghiệm này sau các nhiệm vụ trên, một vài người vẫn cho rằng dự án này chỉ đang đi vào vòng bí mật và chương trình Monarch đã trở thành “người nối ngôi bí mật” của MK-ULTRA.

Khẳng định mang tính buộc tội bởi một chuyên gia chính phủ về sự tồn tại của Dự án MONARCH đã được trích dẫn bởi Anton Chaitkin, một nhà báo của The New Federalist. Khi giám đốc cũ của CIA William Colby được hỏi thẳng “Monarch thì sao?”, ông ta trả lời một cách mơ hồ và giận dữ, “Chúng tôi đã dừng việc đó từ cuối những năm 60 và đầu những năm 70”.

Chương trình Monarch

Mặc dù không có bất kì khẳng định chính thức nào về sự tồn tại của chương trình Monarch, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng đã có những bài viết về việc gây tổn thương cho các đối tượng thử nghiệm với mục đích điều khiển bộ óc của họ. Một vài người sống sót, với sự giúp đỡ tận tình của những chuyên gia điều trị, đã có thể thoát khỏi chương trình và tiết lộ những chi tiết khủng khiếp của thử thách mà họ phải trải qua.

Nô lệ của Monarch thường bị lợi dụng bởi các tổ chức để thực hiện những phi vụ cụ thể, những người này không bao giờ thắc mắc về nhiệm vụ của mình, cũng không nhớ mình đã làm gì, nếu bị phát hiện thì sẽ tự động tự tử. Họ là tấm bia đỡ đạn hoàn hảo cho những vụ ám sát quan trọng, là người lí tưởng cho mại dâm, nô dịch và sản xuất những bộ phim người lớn. Họ cũng là những con rối hoàn hảo cho ngành công nghiệp giải trí.

“Tôi chỉ có thể nói tôi tin chương trình nghi lễ này là phổ biến, là có hệ thống, được tổ chức hoàn chỉnh với những thông tin không ai biết tới và không được nói ở đâu, không có trong bất cứ một cuốn sách hay chương trình trò chuyện nào, song chúng ta có thể tìm được nó ở mọi nơi trên đất nước này và ít nhất một nước khác.

Người ta hỏi, “Mục đích của nó là gì?”. Tôi đoán chúng muốn một đội quân Manchurian Candidates, mười nghìn con rô-bốt sẽ hoạt động mại dâm, đóng phim, buôn lậu thuốc ngủ, hoạt động trong đường dây buôn lâu, những việc sinh lời, làm theo mệnh lệnh và những kẻ hoang tưởng ở trên cao tin rằng chúng sẽ thiết lập một Hội của quỷ Satan sẽ thống trị thế giới”.

Những người lập trình của Monarch gây ra những tổn thương sâu sắc tới nạn nhân qua việc sử dụng sốc điện, hành hạ, cưỡng ép và những trò chơi trí não buộc họ phải tách biệt khỏi thực tại – một phản ứng tự nhiên ở một số người khi họ phải chịu những tổn thương quá mức. Khả năng tách biệt khỏi thực tế là một yêu cầu cơ bản và nó có thể được tìm thấy ngay ở những đứa trẻ có gia đình với truyền thống bạo hành nhiều thế hệ. Sự tách biệt cho phép những kẻ điều khiển tạo ra những nhân cách khác nhau trong tâm thần của đối tượng, sau đó sẽ bị lập trình và kích thích theo ý muốn của chúng.

“Chương trình điều khiển trí não dựa vào tổn thương có thể được định nghĩa như một hệ thống tra tấn kìm hãm năng lực ý thức của nạn nhân (thông qua cơn đau, sợ hãi, thuốc, ảo giác, mất giác quan, kích thích giác quan quá đà, mất oxy, lạnh, nóng, chóng mặt, kích thích não, và thường là cảm giác cận kề cái chết), sau đó cấy những suy nghĩ, định hướng và cách nhìn trong bộ não không tỉnh táo, thường ở những cá thể mới bị tổn thương và tách biệt, điều này buộc nạn nhân phải làm, phải cảm nhận, nghĩ hoặc tiếp thu những điều theo mục đích của người lập trình. Mục tiêu là để cho nạn nhân tuân theo những chỉ dẫn mà không có sự nhận thức tỉnh táo nào, bao gồm việc thi hành những điều rõ ràng là vi phạm với chuẩn mực đạo đức, đức tin và ý muốn của nạn nhân.

Việc cài đặt chương trình điều khiển trí óc phụ thuộc vào khả năng tách rời thực tế của nạn nhân, tạo điều kiện cho sự hình thành của một nhân cách hoàn toàn mới để “giữ” và “giấu” chương trình đi. Những đứa trẻ dễ phân tán là đối tượng quan trọng của chương trình này”.

Chương trình Monarch được bí mật sử dụng bởi các nhóm và tổ chức cho nhiều mục đích khác nhau. Theo Fritz Springmeier, những nhóm này được biết với cái tên “The Network” và là khung xương cho New World Order (tạm dịch là Trật tự thế giới mới).

Nguồn gốc của cái tên

Chương trình Monarch được đặt tên trùng với loài bướm Monarch – một loại côn trùng bắt đầu vòng đời trong hình dạng một con sâu (thể hiện những năng lực tiềm tàng chưa được phát triển) và sau một thời gian trong kén (lập trình), nó trở thành một con bướm tuyệt đẹp (nô lệ của Monarch). Một vài đặc trưng của loài bướm Monarch cũng ứng dụng trong điều khiển trí óc.

“Một trong những lí do đầu tiên mà chương trình Monarch có tên như vậy là vì loài bướm Monarch. Loài bướm này biết nơi mình sinh ra (nguồn gốc của nó) và nó truyền thông tin này qua hệ gen tới đời con cháu (từ đời này qua đời khác). Đây là một loài động vật quan trọng cung cấp thông tin cho những nhà khoa học: kiến thức có thể được truyền qua gen. Chương trình Monarch được xây dựng dựa trên mục đích của Illuminati và Nazi để sáng tạo một cuộc chạy đua về việc chuyển đổi cấy ghép gen. Nếu kiến thức có thể được truyền qua gen (đúng là như vậy), vậy việc cha mẹ truyền cho những đứa trẻ bị lựa chọn là nạn nhân của chương trình Monarch những kiến thức đúng là vô cùng quan trọng”.

“Khi một người chịu tổn thương bởi sốc điện, cảm giác lơ lửng sẽ xuất hiện, như họ đang trôi bồng bềnh như một con bướm. Ngoài ra cũng có những biểu hiện liên quan tới sự thay đổi và biến hình của loài côn trùng này: từ một con sâu thành một cái kén (không hoạt động) tới một con bướm (một sản phẩm mới) mà sẽ quay trở lại nguồn gốc của nó. Điều khiến cho loài này trở nên đặc biệt chính là việc di trú của chúng.”

Phương pháp

Nạn nhân / người sống sót bị kẻ điều khiển gọi là nô lệ, và chúng được gọi là “master” hoặc “chúa”. Khoảng 75% là phụ nữ, vì họ có khả năng chịu đau đớn tốt hơn và có xu hướng phân tán dễ dàng hơn nam giới. Những kẻ điều khiển cần sự phân chia hoàn toàn trong tâm thần của đối tượng thành nhiều nhân cách khác biệt bằng việc sử dụng tổn thương để gây ra sự phân tán.

Dưới đây là một phần của các hình thức tra tấn:

1. Lạm dụng và hành hạ.
2. Nhốt trong thùng, lồng, quan tài hoặc bị chôn sống (thường với một ống thông khí duy nhất)
3. Bị trói bằng dây, xích, khóa…
4. Gây cảm giác gần chết đuối.
5. Quá lạnh hoặc quá nóng, bao gồm việc dìm xuống nước lạnh hoặc các chất đang đun chảy.
6. Lột da (với những nạn nhân được cho sống sót thì chỉ lột lớp da ngoài cùng)
7. Sự xoay tròn.
8. Đèn mờ
9. Sốc điện.
10. Ép buộc ăn những chất mà cơ thể thải ra như máu, nước tiểu, phân, thịt…
11. Bị treo ở tư thế gây đau đớn hoặc treo ngược đầu xuống đất.
12. Bỏ đói hoặc khát.
13. Không cho ngủ.
14. Đè nén bởi các vật nặng
15. Gây mất cảm giác.
16. Sử dụng thuốc gây ảo giác, rối loạn và mất trí, thường tiêm vào tĩnh mạch.
17. Buộc ăn những chất độc để gây đau đớn hoặc ốm yếu.
18. Làm gãy hoặc vẹo chân tay.
19. Sử dụng rắn, nhện, dòi, chuột và các loài vật khác để gây sợ hãi và cảm giác kinh tởm.
20. Những trải nghiệm cận kề cái chết, thường là làm ngạt thở, nghẹn hoặc dìm xuống nước, và ngay lập tức làm tỉnh lại.
21. Buộc thực hiện hoặc quan sát việc người khác bị hành hạ, tra tấn và hiến tế con người hoặc động vật, thường dùng dao.
22. Buộc trở thành nô lệ.
23. Cưỡng ép để mang thai, bào thai sau đó bị bỏ đi cho mục đích nghi lễ, hoặc đứa trẻ bị lấy đi để hiến tế hoặc trở thành nô lệ.
24. Lạm dụng tâm lí để khiến nạn nhân cảm thấy mình bị ám, bị cưỡng bức và bị điều khiển bên trong bởi linh hồn hoặc quỷ dữ.
25. Phỉ bang niềm tin vào Chúa và những niềm tin khác, cống hiến hoàn toàn cho Satan hoặc những thần linh khác.
26. Lạm dụng ảo ảnh để thuyết phục nạn nhân rằng Chúa rất tàn ác, ví dụ như thuyết phục một đứa trẻ là Chúa đã lạm dụng nó.
27. Phẫu thuật để tra tấn, thí nghiệm hoặc gây chấn động thể chất và tinh thần.
28. Đe dọa tới gia đình, bạn bè, những người thân, vật nuôi và những nạn nhân khác để buộc họ phải tuân lệnh.
29. Dùng ám ảnh để gây rối loạn.

“Nền tảng cho sự thành công của chương trình điều khiển trí óc Monarch là những nhân cách khác nhau có thể được tạo lập và hoàn toàn không biết sự tồn tại của các nhân cách khác, tuy nhiên chúng có thể chiếm đoạt thân xác bất cứ lúc nào. Bức tường lãng quên được dựng lên bởi những tổn thương, từ một tấm áo giáp của bí mật bảo vệ kẻ lạm dụng khỏi bị phát hiện, và ngăn chặn nhân cách chính biết được rằng các nhân cách khác đang được sử dụng. Bộ áo giáp bí mật cho phép những thành viên ngầm hoạt động quanh người khác và không bị phát hiện. Nhân cách chính có thể là một người theo đạo Thiên chúa, nhưng nhân cách ẩn giấu có thể là tên ác quỷ thờ cúng Satan – hiệu ứng Dr. Jekyll / Mr. Hyde. Tỉ lệ thành công của chương trình này khá lớn nhưng khi thất bại, những nạn nhân sẽ bị đào thải bằng cái chết. Mỗi kiểu tra tấn và loại tổn thương phục vụ một mục đích nhất định. Hàng loạt những thí nghiệm và nghiên cứu đã đề cập tới việc tìm ra những gì có thể và không thể làm. Các bảng số liệu cũng được lập ra để tính toán một con người với một số đo cụ thể và lứa tuổi cụ thể có thể chịu đựng được tra tấn tới đâu mà không chết được”.

“Căn cứ vào những tổn thương gây bởi ECT (Electroconvulsive Therapy – tạm dịch là sốc điện), lạm dụng và nhiều phương pháp khác, bộ não phân chia thành nhiều nhân cách. Trước đây nó thường được nhắc đến với cái tên Multiple Personality Disorder (tạm dịch là rối loạn đa nhân cách), hiện nay nó có tên Dissociative Identity Disorder (tạm dịch là rối loạn bản sắc phân li) và là nền tảng cho chương trình Monarch. Một số điều kiện khác bao gồm thôi miên, trói toàn thân, thay đổi giữa sự đau đớn và sự sung sướng, đồ ăn, thức uống, cấm ngủ hoặc tước bỏ giác quan, cùng với việc sử dụng nhiều loại thuốc gây ra những hoạt động khác nhau cho não bộ.”

Việc gây tổn thương cho đối tượng sẽ dẫn tới sự phân li, sử dụng hệ thống các hình thức lạm dụng và những nghi thức khủng khiếp không ai biết tới. Một khi sự phân chia nhân cách chính xảy ra, một thế giới bên trong sẽ được tạo lập và nhân cách khác nhau có thể được lập trình sử dụng công cụ như âm nhạc, phim ảnh (đặc biệt là các sản phẩm của Disney) và truyện cổ tích. Những yếu tố âm thanh và hình ảnh củng cố quá trình lập trình qua những bức tranh, biểu tượng, ý nghĩa và đặc trưng. Nhân cách được tạo lập có thể bị kích thích bởi các từ hoặc biểu tượng đã được lập trình trong tâm thần của đối tượng. Một số hình ảnh quen thuộc bao gồm cây cối, Cabalistic Tree of Life, vòng xoay liên hoàn, biểu tượng và chữ cổ, mạng nhện, gương, kính vỡ, mặt nạ, lâu đài, mê cung, ác quỷ, bướm, đồng hồ cát, đồng hồ và robot. Những biểu tượng này thường được cho vào các bộ phim hoặc videos phổ biến vì hai lí do: để làm cho số đông mất đi sự nhạy bén (trong việc phát hiện những biểu tượng bất thường), sử dụng những chương trình ăn sâu vào tiềm thức và để tạo ra những kích thích và chìa khóa cho việc lập trình của những đứa trẻ có ấn tượng mạnh mẽ với Monarch. Một vài bộ phim được dùng trong chương trình Monarch bao gồm “The Wizard of Oz”, “Alice in Wonderland”, “Pinocchio” và “Sleeping Beauty”.


Bộ phim “The Wizard of Oz” được sử dụng bởi các kẻ điều khiển để lập trình nô lệ của họ. Biểu tượng và ý nghĩa của chúng gây kích động cho các nạn nhân của chương trình và tạo một con đường đi dễ dàng vào bộ não của họ. Trong nền văn hóa đại chúng, những mối liên quan bí mật tới chương trình Monarch thường tương tự với những hình ảnh trong “The Wizard of Oz” và “Alice in Wonderland”.

Trong mỗi trường hợp, nô lệ bị gắn cho một cách hiểu khác nhau của cốt truyện trong bộ phim để củng cố việc lập trình. Ví dụ, một nạn nhân xem “The Wizard of Oz” được dạy rằng “nơi nào đó trên cầu vồng” là “nơi hạnh phúc” mà những nô lệ chịu tổn thương phải tới để tránh khỏi những cơn đau họ đang phải chịu. Sử dụng bộ phim này, những người lập trình khuyến khích nô lệ tới với nơi đó, tách biệt khỏi thế giới thực và cũng tách biệt cả trí óc khỏi cơ thể của họ.  

“Như đã đề cập trước đó, những người thôi miên sẽ thấy việc thôi miên trẻ em là dễ dàng hơn nếu họ biết cách. Một phương pháp rất hiệu quả đó là nói với chúng “Hãy tưởng tượng cháu đang xem một bộ phim hay”. Đó là lí do vì sao những chương trình của Disney vô cùng quan trọng với người lập trình. Đó là công cụ thôi miên hiệu quả nhất để làm cho bộ óc của những đứa trẻ phân li đúng hướng. Những người lập trình sử dụng những thước phim này để buộc trẻ em học những phân đoạn mang tính thôi miên. Nếu một người thôi miên cho phép trẻ tự tưởng tượng ra hình ảnh, khả năng trẻ bị thôi miên lại càng mạnh mẽ hơn. Người lập trình hỏi đứa trẻ thay vì nói với nó màu của một chú chó. Đó là cách mà sách truyện và phim ảnh hướng đầu óc của đứa trẻ vào lối đi đúng đắn. Nếu người thôi miên nói chuyện cho một đứa trẻ, anh ta phải cực kì cẩn thận để không thay đổi giọng của mình và có những thay đổi ôn hòa. Phần lớn phim của Disney đều dùng cho mục đích lập trình. Một số trong đó được thiết kế đặc biệt cho điều khiển trí óc.”

Các mức độ của chương trình Monarch

Các mức độ của chương trình Monarch xác định “chức năng” của nô lệ tương ứng với sóng não Electroencephalography (EEG) của họ.
  
Các dạng sóng não EEG

Kiểm tra sóng não qua da đầu
Được nói tới như cách lập trình thông thường, ALPHA là tình trạng nạn nhân ở nhân cách gốc. Nó đặc trưng bởi trí nhớ đặc biệt rõ rệt, cùng với việc tăng sức khỏe và thị lực. Chương trình Alpha được thực hiện bằng cách chia nhỏ nhân cách của nạn nhân, tạo ra ngăn cách giữa não trái và não phải, lập trình sự tổng hòa giữa não trái và phải qua kích thích nơ-ron thần kinh.

BETA thường được nhắc tới với cái tên chương trình “tình dục”. Chương trình này xóa bỏ trong nạn nhân tất cả những đức tin và đạo lí đã được học và thúc đẩy bản năng nguyên thủy mà không có sự ức chế. Nhân cách “mèo” thường được biểu hiện ở mức độ này. Còn được biết dưới cái tên Kitten programming, nó là dạng dễ thấy nhất ở các nghệ sĩ, người mẫu, ca sĩ và diễn viên nữ. Trong văn hóa đại chúng, loại trang phục da báo biểu thị Kitten programming.

 DELTA được biết đến với cái tên chương trình của “kẻ giết người” và được phát triển để đào tạo những đặc vụ hoặc quân đội của tầng lớp bí mật (như Delta Force, First Earth Battalion, Mossad…) trong những phi vụ ngầm. Đối tượng không sợ hãi và hoạt động rất bài bản để thực hiện phi vụ của mình. Hướng dẫn tự phá hủy hoặc tự tử xuất hiện trong mức độ này.
  
THETA – liên quan tới chương trình về tâm thần. Bloodliners (những người đến từ các gia đình nhiều tầng lớp thờ cúng Satan) có năng lực cảm nhận từ xa tốt hơn những người thường. Tuy nhiên bởi những hạn chế rõ ràng của nó, nhiều cách điều khiển trí óc bằng xung điện đã được phát triển và giới thiệu, ví dụ như thiết bị sinh lí học về cảm nhận con người (cấy não), với việc sử dụng laze trực tiếp từ sóng cực ngắn và điện từ. Những vật dụng này được kết nối với các siêu máy tính và hệ thống định vị bằng vệ tinh rất tinh vi.

Kết luận

Thực sự rất khó để tỏ ra khách quan khi miêu tả sự khủng khiếp mà các nạn nhân của chương trình Monarch phải chịu. Bạo hành cực điểm, lạm dụng, tra tấn tinh thần và những trò chơi ác độc của “các nhà khoa học tên tuổi” mà những nạn nhân buộc phải chịu và các cấp chính quyền đã chứng minh sự hiện diện của một thế lực đen tối nằm toàn bộ quyền lực. Mặc dù đã có những khám phá, những tài liệu và kể cả những tin đồn, phần lớn quần chúng vẫn bỏ qua, mặc kệ hoặc tránh nhắc tới những vấn đề này. Hơn hai triệu người Mĩ đã bị lập trình từ năm 1947 và CIA đã thừa nhận rõ ràng dự án điều chỉnh đầu óc của họ vào năm 1970. Những bộ phim như “The Manchurian Candidate” đã trực tiếp đề cập đến vấn đề này, thậm chí còn miêu tả những kĩ thuật có thật, như sốc điện, việc sử dụng từ ngữ kích thích và cấy con chip điện tử. Những nhân vật nổi tiếng ta thường thấy trên TV là nạn nhân của điều khiển trí não. Nhiều người nổi tiếng như Candy Jones, Celia Imrie và Sirhan Sirhan đã tiết lộ những trải nghiệm của họ trong chương trình này…và số đông quần chúng vẫn khẳng định nó “không thể tồn tại”.
Những nghiên cứu và quỹ đầu tư vào dự án Monarch không chỉ ứng dụng vào nô lệ của điều khiển trí óc. Rất nhiều kĩ thuật lập trình được cải thiện tối đa đã được ứng dụng ở quy mô lớn qua các phương tiện truyền thông. Những tin nóng hổi, phim ảnh, video ca nhạc, quảng cáo và các chương trình TV đã và đang sử dụng những tư liệu tân tiến nhất mà loài người từng tạo ra. Rất nhiều trong số đó tới từ chương trình Monarch.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------
  1. Fritz Springmeier, The Illuminati Formula to Create a Mind Control Slave
  2. Ken Adachi, Mind Control the Ultimate Terror
  3. Anton Chaitkin, “Franklin Witnesses Implicate FBI and U.S. Elites in Torture and Murder of Children”, The New Federalist
  4. D. Corydon Hammond, Ph.D.
  5. Ellen P. Lacter, Ph.D., The Relationship Between Mind Control Programming and Ritual Abuse
  6. Ibid.
  7. Ron Patton, Project Monarch
  8. Ellen P. Lacter, Ph.D., Kinds of Torture Endured in Ritual Abuse and Trauma-Based Mind Control
  9. Springmeier, op. cit.
  10. Patton, op. cit.
  11. Ibid.
  12. Springmeier, op. cit.
  13. Patton, op. cit.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét